Hiển thị các bài đăng có nhãn Tin Tức Công Nghệ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tin Tức Công Nghệ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 13 tháng 11, 2013

Lịch sử hình thành những cái tên nổi tiếng đến bất ngờ

Bạn có biết rằng kết nối Bluetooth trong công nghệ không có nghĩa là "răng xanh"?

Ẩn sau bất cứ cái tên nào cũng là một ý nghĩa hoặc một lịch sử thú vị. Bài viết dưới đây sẽ mang đến cho bạn những góc nhìn rất thú vị của một số tên thương hiệu nổi tiếng hoạt động trong ngành công nghiệp công nghệ.

1. Bluetooth


Trái ngược với những gì mọi người vẫn thường lầm tưởng, tên gọi Bluetooth hoàn toàn không liên quan gì đến màu xanh hay là những chiếc răng cả.

Theo đó, tên của kết nối Bluetooth được đặt theo Harald Bluetooth, một vị vua Viking của Đan Mạch vào giai đoạn từ năm 958 đến 970. Ông nổi tiếng là một người có khả năng gắn kết mọi người đồng thời góp công lớn vào việc thống nhất Đan Mạch và Na Uy.

Vào giữa những năm 1990, công nghệ kết nối không dây bắt đầu cần có một tiêu chuẩn hợp nhất bởi rất nhiều công ty đang phát triển loại kết nối này nhưng lại đi theo những hướng khác nhau và rõ ràng đây là một trở ngại để công nghệ kết nối này có thể phát triển.

Lúc bấy giờ, Jim Kardach, một kĩ sư làm việc ở mảng kết nối không dây cho Intel đã đứng ra làm một người thương thuyết giữa các công ty để tìm ra hướng giải quyết cho một chuẩn kết nối tầm gần, tốn ít năng lượng và đồng nhất trên toàn bộ ngành công nghiệp. Kardach có đọc một cuốn sách về những người Viking trong đó có nhắc đến Harald Bluetooth và ông lập tức nhận thấy vị vua này đúng là một biểu tượng của việc kết nối giữa các bên với nhau.

Về sau, rất nhiều công ty đã đồng ý để cùng thành lập Bluetooth Special Interest Group, khai sinh ra chuẩn kết nối Bluetooth mà chúng ta vẫn thấy cho đến tận hôm nay.

2. eBay


Thoạt nghe cái tên eBay chắc hẳn bạn sẽ đoán ngay chữ “e” là viết tắt của “electronic” nhằm diễn tả tính “điện tử” của dịch vụ này. Thế nhưng điều này hoàn toàn không chính xác!

Có thể bạn chưa biết, tiền thân của dịch vụ eBay có tên AuctionWeb và là một phần của một dự án cá nhân khá lớn vận hành bởi một cựu kĩ sư phần mềm làm việc cho Apple có tên Pierre Omidyar. Khi AuctionWeb phát triển với tốc độ lớn hơn mong đợi, Omidyar đã quyết định tách hẳn dịch vụ này ra thành một nhánh riêng và đặt tay cho nó là “Echo Bay”, theo tên của công tư tư vấn ông đang sở hữu, Tập đoàn Công nghệ Echo Bay. Rất tiếc, lúc bấy giờ tên miền "echobay.com" đã có chủ và Omidyar đành rút ngắn cái tên đã định thành “ebay.com”.

3. Google


Câu chuyện về gốc gác cái tên Google có lẽ sẽ khá quen thuộc đối với nhiều người. Cụ thể, tên của cỗ máy tìm kiếm lớn nhất hành tinh này là kết quả của... một lỗi chính tả.

Ban đầu, Larry Page định đặt tên cho Google là Googol, một thuật ngữ toán học để chỉ một số cấu thành từ 1 số 1 và 100 số 0 theo sau với ý nghĩa to lớn diễn tả nguồn thông tin vô tận mà Internet mang lại cho con người.

Dưới đây là toàn bộ câu chuyện giải thích lí do vì sau “Googol” lại biến thành “Google”:

“Sean Anderson (bạn học của Larry Page tại Đại học Stanford) và Larry lúc bấy giờ đang ở trong văn phòng, sử dụng bảng trắng và cố gắng nghĩ ra một cái tên thật tuyệt vời – một cái tên diễn tả được kho dữ liệu rộng lớn Internet ẩn chứa. Sean đề xuất tên “googolplex” nhưng Larry lại muốn cái tên này ở dạng ngắn gọn hơn “googol”. Tuy nhiên, Sean lại là một người thường xuyên sai lỗi chính tả và vì một lý do gì đó ông đã tìm thử tên miền google.com thay vì googol.com và tên miền này khả dụng. Mặc dù chỉ là một sự nhầm lẫn nhưng Larry lại tỏ ra khá hài lòng với cái tên cực kì tình cờ này. Vài giờ sau đó, ông chính thức đăng kí tên miền “google.com”.

4. Amazon


Đã bao giờ bạn thắc mắc về ý nghĩa cái tên của trang web vốn chỉ từ một nhà cung cấp sách biến thành một nhà sản xuất các thiết bị điện tử và bán lẻ mọi mặt hàng trên thế giới Amazon chưa?

Người sáng lập Amazon Jeff Bezos từng chia sẻ ban đầu ông đặt tên cho dịch vụ này là “Cadabra”, thế nhưng vị luật sư chịu trách nhiệm đăng ký cho công ty lại nghe nhầm thành “cadaver” (một từ với nghĩa chỉ “xác chết”, tử thi”), Bezos quyết định công ty của ông cần một cái tên mới thân thiện và tươi sáng hơn.

Trở về thời kì trước khi Google xuất hiện, việc xuất hiện trước sau trong những cuốn danh bạ luôn là một yếu tố được cân nhắc kĩ càng trong việc đặt tên thương hiệu, do đó, Bezos quyết định tên “đứa con” của ông phải được bắt đầu bằng chữ “A”. Sau một thời gian lục lọi từ điển để tìm cho dịch vụ của mình một cái tên thú vị bắt đầu với “A”, Bezos dừng lại ở “Amazon”, tên con sông có lưu vực lớn nhất thế giới với mong muốn Amazon cũng phát triển như vậy.

Thêm một điểm khá thú vị về Amazon nữa mà bạn có thể thấy trên logo của hãng, đó là sự xuất hiện của một mũi tên chỉ từ a đến z, ám chỉ việc dịch vụ này sẽ đáp ứng đủ mọi như cầu mua sắm của bạn.

5. Nintendo


Mặc dù không phải là những cỗ máy chơi game đầu tiên xuất hiện thị trường, thế nhưng, Nintendo Entertainment System là một trong những cái tên thành công nhất trên thị trường lúc bấy giờ.

Nintendo bắt đầu từ năm 1889 là một công ty sản xuất những quân bài thủ công làm từ vỏ cây dâu để sử dụng trong một trò chơi có tên Hanafuda, một trò chơi liên quan đến xác suất may rủi, khá giống với trò đánh cược bây giờ. “Nintendo” trong tiếng Nhật có thể dịch ra là “leave luck to heaven” (tạm dịch: đặt vận may vào bàn tay số phận), cụm từ được sử dụng thường xuyên trong trò Hanafuda kể trên.

Bắt đầu từ việc sản xuất những bộ bài, công ty kể trên đã rất nỗ lực và cuối cùng đã tìm được đường thâm thập vào thị trường trò chơi và họ cũng quyết định lấy tên là Nintendo để kỉ niệm nguồn gốc ban đầu của mình.

6. Nokia


Nokia bắt đầu sự nghiệp kinh doanh của mình trong một lĩnh vực không hề liên quan đến công nghệ một chút nào – một nhà máy giấy. Khi việc kinh doanh phát triển mạnh mẽ và nhà máy thứ hai bắt đầu được xây dựng tại thị trấn Nokia (khá gần Helsinki), công ty sản xuất giấy này đã quyết định lấy luôn cái tên Nokia làm tên cho công ty mình.

Trải qua một vài thập kỉ, Nokia đã thử qua rất nhiều ngành công nghiệp khác nhau và cuối cùng chính thức trở thành một công ty công nghệ viễn thông vào cuối những năm 1960. Vào những năm 80 thế kỉ trước, Nokia trở thành một trong những nhà sản xuất điện thoại di động đầu tiên trên thế giới với những chiếc điện thoại khá to và nặng như Mobira Cityman 900. Từ đây, kỉ nguyên các thiết bị di động Nokia bắt đầu, tuy nhiên, khi những chiếc smartphone bắt đầu xuất hiện, Nokia lại tỏ ra hụt hơi nhanh chóng và không bắt kịp tốc độ phát triển.

7. Sony


Vào những năm tháng đầu tiên đi vào hoạt động, công ty chủ sở hữu của rất nhiều sản phẩm ấn tượng như Walkman, Playstation, điện thoại Sony Ericsson... có tên là Tokyo Tsushin Kogyo (tạm dịch: Công ty Kĩ thuật Viễn thông Tokyo).

Lúc đó, ban quản trị công ty đã quyết định rằng họ cần một cái tên mới thay cho cái tên thuần chất Nhật Bản hiện tại nếu muốn thành công ở những thị trường lớn như Châu Âu hay Hoa Kỳ, đặc biệt là trong bối cảnh lúc bấy giờ những thị trường này đều coi hàng hóa sản xuất tại Nhật là loại hàng hóa rẻ tiền và có chất lượng không đáng tin cậy. Kết quả là cái tên Sony đã ra đời, nó là sự kết hợp giữa từ La-tinh “sonus” (có nghĩa là âm thanh) và “sonny-boy” (từ tiếng lóng Mỹ để chỉ một bé trai).

Sản phẩm đầu tiên được bán ra dưới tên thương hiệu Sony là chiếc đài TR-55 vào năm 1955, đây cũng là chiếc đài có tính di động cao đều tiên được bán ra ở Nhật.

8. Yahoo!


Yahoo! ban đầu chỉ đơn thuần là một sở thích được phát triển bởi hai sinh viên đang theo học bằng tiến sĩ tại Đại học Stanford David Filo và Jerry Yang khi họ tiến hành xây dựng một danh sách các trang web mình yêu thích. Khi danh sách này ngày một phát triển, hai người nhận ra rằng có thể biến sở thích này thành một dịch vụ hữu ích cho cộng đồng.

Đầu tiên hai nhà sáng lập đặt tên cho dịch vụ của mình là “Jerry and David’s Guid to the World Wide Web”, sau đó họ tìm đến một cái tên ngắn hơn, dễ nhớ và ít mang tính cá nhân hơn là “Yahoo!”. Dẫu vậy, tên dịch vụ này không bắt nguồn từ một tiếng reo “Yahoo!” đầy sảng khoái mà nó là viết tắt của của “Yet Another Hierarchical Officious Oracle” (tạm dịch: hướng dẫn không chính thức theo danh mục).

9. Apple


Theo Walter Isaacson, tác giả cuốn tiểu sử nổi tiếng Steve Jobs, hành trình tìm ra cái tên Apple cũng khá thú vị.

Khi Jobs và Wozniak đang tìm một cái tên cho công ty họ đang ấp ủ, Jobs đã có một chuyến tới thăm một trang trại trồng táo. Ngay lập tức, ông đề xuất cái tên “Apple Computer” mà Jobs có giải thích với Walter rằng nó “nghe rất vui nhộn, đầy sức sống và thân thiện”. Steve Jobs cũng nói thêm việc đặt tên công ty là Apple cũng sẽ giúp “táo cắn dở” đứng trước Atari trong danh bạ điện thoại. Bạn thấy đó, một lần nữa danh bạ điện thoại lại đóng vai trò một trong những nhân tố quyết định đến việc đặt tên công ty.
Theo:Tri Thức Trẻ

Posted By Unknown13.11.13

Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

Sách Trắng về CNTT và Truyền thông Việt Nam 2013

Ngành CNTT và TT tiếp tục trở thành điểm sáng của nền kinh tế năm 2012, góp phần quan trọng trong tiến trình đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin và truyền thông.


Trong năm 2012, ngành công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT) tiếp tục tăng trưởng, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trở thành điểm sáng của nền kinh tế trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang còn gặp nhiều khó khăn.


Qua Sách Trắng về CNTT-TT Việt Nam 2013, có thể tóm tắt một số thành tựu nổi bật của ngành trong giai đoạn 2012-2013 như sau


Thứ hạng ngành CNTT-TT Việt Nam có nhiều cải thiện theo đánh giá của quốc tế


Trong xếp hạng chung về CNTT-TT, Chỉ số phát triển CNTT-T (IDI) của Việt Nam xếp 81/161 quốc gia, đứng thứ 4 khu vực Đông Nam Á (2012) và Chỉ số sẵn sàng kết nối (NRI): của Việt Nam xếp 84/14 quốc gia, đứng thứ 5 khu vực Đông Nam Á (2012). Trong khi đó, về công nghiệp CNTT, Việt Nam xếp thứ 8 thế giới về gia công phần mềm theo báo cáo của Tập đoàn Tholons (2011) và Top 10 nước châu Á - Thái Bình Dương và top 30 thế giới về gia công phần mềm theo báo cáo của Tập đoàn Gartner (2012). Đặc biệt, TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội nằm trong top 100 thành phố hẫn dẫn về gia công phần mềm, trong đó TP.HCM xếp thứ 16 và Hà Nội xếp thứ 23 (2013).


Về Chính phủ điện tử, Việt Nam xếp thứ 4 khu vực Đông Nam Á và 81/190 quốc gia (2012) và được đánh giá cao về dịch vụ công và ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước. Trong khi đó, nguồn nhân lực Việt Nam xếp thứ 101/161 quốc gia (2012), điển hình là chất lượng đào tạo các môn Toán và các môn khoa học được đánh giá cao. Về phát triển Internet, Việt Nam nằm trong top 10 nước Châu Á có tốc độ tăng trưởng người dùng Internet nhanh nhất và xếp thứ 3 Đông Nam Á, thứ 8 châu Á và 18 thế giới về số người dùng Internet.




Hạ tầng CNTT-TT tiếp tục được đầu tư, nâng cấp đáp ứng sự tăng trưởng mạnh mẽ của các thuê bao viễn thông và Internet


Năm 2012, số thuê bao di động vẫn tiếp tục tăng trưởng tuy có chững lại với trên 131 triệu thuê bao tăng 3,2% nâng số thuê bao di động/100 dân đạt 148,33. Đáng chú ý, năm 2012, số thuê bao 3G bị giảm nhẹ do nhà mạng đã tăng cường cắt giảm các thuê bao ảo và số thuê bao 3G trên thực tế vẫn tăng. Trong khi số thuê bao cố định vẫn tiếp tục giảm do yếu tố công nghệ chỉ còn gần 10 triệu thuê bao giảm 6% với số thuê bao cố định/100 dân chỉ đạt 10,76. Số thuê bao Internet băng rộng cố định tăng nhanh đạt 4,78 triệu thuê bao tăng 24,7%. Mật độ người sử dụng Internet đạt 35.3% (với 31,3 triệu người). Tỷ lệ số hộ gia đình có máy tính đạt khoảng 18,8% và gần 21,3 triệu hộ sử dụng máy thu hình (đạt 91,7%). Mạng lưới bưu chính công cộng với số lượng điểm phục vụ bưu chính đạt 13.612 điểm. Số dân phục vụ bình quân trên 01 điểm phục vụ bưu chính đạt 6.486 người.

Công nghiệp CNTT tiếp tục đà tăng trưởng ngoạn mục với vai trò chủ lực của các doanh nghiệp FDI


Tổng doanh thu công nghiệp CNTT năm 2012 đạt 25,5 tỷ USD, tăng ngoạn mục 86,3% so với năm 2011. Sự tăng trưởng cao này tiếp tục do sự duy trì tốc độ tăng trưởng ấn tượng của lĩnh vực công nghiệp phần cứng, điện tử với trên 23 tỷ USD doanh thu tăng trưởng 103,2% và chiếm tới 90,4 % tổng doanh thu của ngành công nghiệp CNTT.
Công nghiệp phần mềm và nội dung số cũng tăng trưởng nhưng tốc độ khiêm tốn tương ứng là 3,1% và 6,0%, trong đó sự tăng trưởng lĩnh vực phần mềm là thấp nhất trong cả 3 lĩnh vực. Xuất khẩu sản phẩm CNTT-TT đạt 22,92 tỷ USD tăng trên 110,4% so với năm 2011, và đặc biệt tổng kim ngạch xuất khẩu đã cao hơn nhập khẩu gần 3,5 triệu USD. Năm 2012, tổng số lao động trong lĩnh vực đạt trên 350.000 lao động, tăng trưởng hơn 50.000 lao động so với năm 2011, chủ yếu đến từ lĩnh vực phần cứng.


Lĩnh vực viễn thông phục hồi đà tăng trưởng với sự thống lĩnh thị trường cố định của VNPT và sự vượt trội của Viettel về dịch vụ điện thoại di động

Nhìn chung năm 2012, dù suy giảm kinh tế nhưng tổng doanh thu viễn thông vẫn đạt gần 8,5 tỷ USD, tăng trên 21% so với năm 2011. Trong đó, doanh thu dịch vụ di động tăng hơn 1 tỷ USD từ 5,4 tỷ lên 6,5 tỷ USD và vẫn chiếm phần lớn trong cơ cấu doanh thu (chiếm 76,43% tổng doanh thu). Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu giúp thị trường viễn thông tăng trưởng. Doanh thu dịch vụ cố định và Internet cũng đều tăng song mức tăng khiêm tốn lần lượt là 394,2 triệu USD (tăng 8,9%) và 474,8 triệu USD (tăng 1,42%).


Lĩnh vực viễn thông và Internet đang chứng kiến sự thống lĩnh thị trường cố định của VNPT và sự vượt trội của Viettel về dịch vụ điện thoại di động. Về dịch vụ điện thoại cố định,VNPT vẫn chiếm thị phần cao nhất (75,4%) tăng thị phần so với năm 2011 (68,8%) sau đó đến Viettel (22,96%) tăng so với năm 2011 (22,3%) còn lại là các nhà cung cấp khác.


Trong khi đó, đối với dịch vụ điện thoại di động, Viettel vẫn chiếm thị phần cao nhất (40,05%), MobiFone lấy lại vị trí số 2 với 21,4% ( năm 2011 xếp thứ 3 với 17,9%) và theo sát là VinaPhone với 19,88% (năm 2011 xếp thức 2 với 30,1%) và mỗi nhà cung cấp dịch vụ này chỉ chiếm ½ số thuê bao của Viettel. Vietnamobile vẫn chiếm thị phần cao trong các hãng còn lại với 10,74%. Trong khi đó, xét về thị trường thuê bao 3G thì 3 nhà cung cấp dịch vụ Viettel, MobiFone và VinaPhone vẫn áp đảo với số thị phần gần tương đương trong đó Viettel chiếm 34,73% , theo sát là MobiFone với 33,19% và VinaPhone 29,71% còn lại 2,36% là Vietnamobile. Trong khi đó, xét về thị phần thuê bao dịch vụ Internet trong thị trường cả truy nhập cố định và di động, hai nhà cung cấp dịch vụ truy nhập Internet chủ đạo là VNPT (62,82%) và Viettel (29,45%), theo sau là FPT (5,73%) và các nhà cung cấp đều tăng thị phần so với năm 2011.

Về truy nhập Internet cố định, VNPT chiếm thị phần thuê bao cao nhất với 57,68% (bị giảm so với 2011 là 63,21%) trong khi thị phần truy nhập Internet bằng mạng 3G, VNPT cũng áp đảo với 64,62 % (khi tính gộp cả MobiFone và VinaPhone).


Phát thanh truyền hình Việt Nam doanh thu ổn định với số thuê bao tăng ấn tượng


Hệ thống phát thanh truyền hình đã phát triển mạnh với 67 đài phát thanh – truyền hình và liên tục được nâng cấp, cập nhật các công nghệ tiên tiến trên thế giới. Dịch vụ truyền hình trả tiền cũng đang phát triển khá nhanh. Tổng doanh thu truyền hình trả tiền đạt hơn 200 triệu USD trong đó truyền hình cáp chiếm 97% doanh thu.

Thuê bao truyền hình trả tiền cũng tăng trưởng ấn tượng, truyền hình cáp và truyền hình số mặt đất vẫn là dịch vụ có số thuê bao nhiều nhất đạt lần lượt 4,4 triệu và 3,6 triệu thuê bao. Xét về thị phần dịch vụ truyền hình trả tiền, về truyền hình cáp, SCTV chiếm thị phần thuê bao chủ đạo với 36,26% theo sau là VTVCab với 22,67%. Trong khi đó, lĩnh vực truyền hình số vệ tinh VSTV và VTC là hai nhà cung cấp chủ đạo với thị phần khá sát nhau trên 43%, AVG là doanh nghiệp mới gia nhập thị trường song cũng chiếm 13,36% thị phần.


Thị trường Bưu chính tăng nhẹ với thị phần chủ yếu thuộc về VNPost


Năm 2012, doanh thu dịch vụ bưu chính đạt trên 273,7 triệu USD tăng 11% so với năm 2011. Trong đó, xét về thị phần cung cấp dịch vụ bưu chính, Tổng công ty Bưu điện Việt Nam là nhà cung cấp chiếm thị phần lớn nhất với 37% tiếp theo là liên doanh DHL-VNPT với 15,28%. Hai doanh nghiệp đóng vai trò là các nhà cung cấp dịch vụ chủ đạo lĩnh vực bưu chính.

Hệ thống đào tạo nguồn nhân lực CNTT-TT tiếp tục được duy trì ổn định về quy mô và hình thức đào tạo.


Cả nước có 290 trường đại học, cao đẳng có đào tạo về CNTT và viễn thông , tỷ lệ tuyển sinh ngành này là 10,83% trên tổng số chỉ tiêu tuyển sinh năm 2012. Trong năm 2012, số sinh viên ngành CNTT, viễn thông trình độ đại học, cao đẳng tốt nghiệp là trên 40 nghìn, nhập học là 58 nghìn và đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng là gần 170 nghìn. Bên cạnh đó, số lượng các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề có đào tạo về CNTT-TT tăng thêm 30 đơn vị so với năm 2011, nâng tổng số các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề lên 143 đơn vị.


Môi trường pháp lý về CNTT-TT ngày một được hoàn thiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước.


Năm 2012, các chính sách được xây dựng, ban hành chủ yếu tập trung vào việc đảm bảo an toàn thông tin trên môi trường điện tử và đảm bảo an ninh quốc gia như dự thảo Luật An toàn thông tin, Nghị định sửa đổi về chống thư rác, Quyết định về tiêu chí xác định công trình viễn thông quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia, Thông tư quy định danh mục sản phẩm công nghệ thông tin đã qua sử dụng cấm nhập khẩu. Trong khi đó, nhiều chủ trương, chương trình, dự án lớn tiếp tục được Bộ Thông tin và Truyền thông đẩy mạnh triển khai hiệu quả như: Nghị quyết Trung ương IV về phát triển hạ tầng thông tin, Đề án số hóa truyền dẫn phát sóng truyền hình số mặt đất đến năm 2020, Chương trình triển khai cung cấp dịch vụ viễn thông công ích giai đoạn 2011-2015, Chương trình đưa thông tin về cơ sở.


Với những kết quả, thành tựu đáng ghi nhận, ngành CNTT-TT tiếp tục củng cố vị thế và đà tăng trưởng, góp phần hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch giai đoạn đến năm 2015, đồng thời, dần xứng đáng với vai trò là một trong 10 hạ tầng chủ lực của hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.


Các số liệu chi tiết về "Sách trắng về CNTT & TT Việt Nam 2013" bạn có thể xem trên Tạp chí Xã hội Thông tin phát hành ngày 1/11/2013.

Posted By Unknown24.10.13